Trang

Thứ Hai, 31 tháng 1, 2011

Ngộ độc Uyên Linh

Cái khoảnh khắc em Uyên Linh  rút điếu thuốc (giả) khỏi miệng và phà khói hát đến câu “you stole my money and my cigarettes” của ca khúc “Take me to the river” trong đêm chung kết VNI 2010 được gọi là khoảnh khắc (trình diễn) đẹp nhất của năm. Khoảnh khắcấy khiến mình mê  em như điếu đổ. Từ hôm đó, ngày nào về đến nhà cũng phải bật cái youtube lên nghe đi nghe lại ít nhất 4 bài: Take me to the river, Sao chẳng về với em, Chỉ là giấc mơ, Đường cong. Ban ngày ở công ty mà có lúc nào rảnh rảnh là lẩm nhẩm, rên rỉ theo giai điệu của mấy bài đó. Hôm nọ đi hát với các mem lớp C4 cũng yêu cầu bài Đường Cong (nhưng chưa kịp hát thì tan hội!). Lướt net thì cứ chăm chăm cái bài nào có chữ Uyên Linh hay Quốc Trung là phải đọc đầu tiên. Mình lại còn sến đến mức mong muốn gộp hội những người phát cuồng vì Uyên Linh và hội những người phát cuồng vì Quốc Trung vào làm 1 nữa chứ! Mê em Uyên Linh tới mức mình phải gọi là "ngộ độc" âm nhạc (của em ấy!), lại mê cả những lời nhận xét cực kỳ sâu sắc của anh Quốc Trung. Mà cứ tên Quốc Trung là mình mê rồi (hì hì... có sẵn 1 Quốc Trung ở nhà rồi mà vẫn mê anh QT nhạc sĩ - đầu trọc, dắt kính đen mới chết chứ!). Không biết có ai suy nghĩ giống mình không nhỉ? - hi vọng một ngày nào đó em Uyên Linh và anh Quốc Trung tạo thành 1 cặp đôi trong âm nhạc cũng như ngoài âm nhạc! Haizzzzzzzzz... 
(Nhìn anh QT ở đoạn 2:10 kìa...)

Thứ Tư, 26 tháng 1, 2011

Yoga - Không khó như bạn tưởng!

Nếu bạn thử làm một phép search trên google về yoga hay lướt qua hàng dãy dài sách về yoga ở các hiệu sách thì bạn có thể phát hoảng với các tư thế yoga uốn dẻo kinh người như các diễn viên uốn dẻo vậy. Và không ít người đã nghĩ là làm sao mà mình có thể tập như thế được! môn đó không dành cho người “cứng xương” như mình! Nhưng thực tế không phải vậy. Sau khi được training ở Delhi, do chính thầy Ấn Độ dạy, thì mình thấy rằng Yoga có rất nhiều tư thế từ dễ đến khó và hầu như ai cũng có thể tập được. Nhưng vấn đề là tư thế nào thì phù hợp với bạn, và  lưu ý là với những người có tiền sử về xương khớp (nhất là các vấn đề khớp lưng, khớp hông), tim mạch, huyết áp, phụ nữ ở một số thời điểm cần thông báo cho người hướng dẫn để được tư vấn bài tập phù hợp và chỉ dẫn những chống chỉ định.
Môn yoga có nguồn gốc từ Ấn Độ hơn 6.000 năm trước. Yoga có nghĩa là sự kết hợp hoặc hoà hợp. Hoà hợp giữa thể xác, tình cảm và trí tuệ, giữa bản thân và môi trường và cuối cùng là giữa "cái tôi" và vũ trụ. Như vậy Yoga hướng đến những vấn đề đạo đức và tâm linh. Tuy nhiên ngày nay Yoga được nhiều người biết đến như một phương pháp thể dục khá hoàn hảo giúp người tập vô hiệu hoá stress. Mặt khác, nếu quan niệm "tuổi già là một quá trình xơ cứng" thì những động tác Yoga có giá trị làm mềm dẽo cơ thể, duy trì sự trẻ trung thon thả và linh hoạt.
ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC ĐỘNG TÁC YOGA
Các tư thế Yoga thường được gọi là ASANAS. Từ ASANAS hàm nghĩa là nhưng tư thế thoải mái (easy postures). Sự thoải mái không phải đợi đến một thời gian sau khi tập mà có thể cảm nhận được ngay sau khi thực hành mỗi động tác. Đây là điều khác biệt cơ bản giữa các bài tập Yoga và một số phương pháp thể dục thể thao khác. Nếu các phương pháp thể dục thông thường chú tâm phát triễn cơ bắp và sức mạnh bằng những động tác nhanh, mạnh và liên tục thì ngược lại các hoạt động Yoga được thực hành chậm rãi, mềm dẻo phối hợp với nhịp thở sâu và thời gian nghỉ ngơi giữa mỗi tư thế.
Các động tác Yoga dễ thấy nhất là những tư thế vặn người, cúi gập hoặc kéo giãn cơ thể. Những động tác này nhằm gây sức căng thích hợp trong một thời gian nhất định trên một nhóm cơ, khớp hoặc dây chằng, đặc biệt là đối với những vùng "ngoan cố", những nơi mà sinh hoạt thường ngày không đủ tác động tới như vùng cổ, vùng vai, vùng bụng. Sự căng giãn này làm gia tăng lưu lượng máu được chuyển tải đến từng tế bào, từng cơ quan kể cả các mạch máu ngoại biên khiến ta có cảm giác ấm người, cảm giác năng lượng lan toả dễ đưa cơ thể vào tình trạng thư giãn sâu sau đó. Sau mỗi Asanas người tập nên giữ cơ thể ở tư thế xác chết để có thể cảm nhận và gặt hái trọn vẹn lợi ích thư giãn sâu của mỗi tư thế.
Để đạt được sự dẻo dai như thế này, người tập chăm chỉ phải mất hàng năm, bắt đầu từ những động tác dễ
 Những tư thế Yoga cũng gây ra sức ép trên những cơ quan nội tạng và các tuyến nội tiết có tác dụng xoa bóp nội tạng và điều hoà việc xuất tiết các kích thích tố qua đó có thể tăng cường chuyển hoá, kiểm soát những cảm xúc và làm cân bằng tâm lý. Khi được thực hành nhuần nhuyển, các Asanas sẽ làm mạnh cơ bắp, làm giảm các dây chằng bị căng cứng, kích thích tuần hoàn huyết, hoạt hoá các khớp và nhất là làm cho cột sống được dẽo dai, điều kiện cần thiết để cơ thể giữ được sự trẻ trung linh hoạt. Tính chung có đến hàng ngàn Asanas khác nhau. Có tài liệu nói đến 50 ngàn tư thế. Tuy nhiên không cần thiết phải tập tất cả các tư thế. Tùy theo nhu cầu và điều kiện cơ thể riêng, mỗi người chỉ cần tập môt số động tác nhất định. Một số tư thế phổ thông hữu ích cho sức khoẻ có thể mang lại sự hài hoà giữa body, mind and soul mà mọi người đều có thể tập luyện được.
Với người bắt đầu tập thì nên tập thật chậm để tránh trẹo gân, sai khớp hoặc những tổn thương khác. Nếu tập luyện đều đặn, qua thời gian, cơ, khớp sẽ linh hoạt dần và sức khỏe được nâng cao.
Các lợi ích của Yoga:
  • Tăng sự linh hoạt cho cơ thể: Yoga có tác dụng đến tất cả các khớp. Thậm chí những vị trí tưởng chừng không thể hoạt động riêng rẽ. Những bài yoga từ cơ bản đến nâng cao sẽ giúp các khớp xương của bạn hoạt động linh hoạt, nhịp nhàng hơn. Chính vì vậy sẽ giúp bạn trở nên nhanh nhẹn, tháo vát hơn.
  • Tăng độ bôi trơn các khớp, dây chằng và gân: Thật đáng ngạc nhiên khi những cơ quan cứng nhắc tưởng chừng không dịch chuyển được lại trở nên dẻo dai,linh hoạt. Câu trả lời đó là đằng sau những bài tập yoga. Những động tác yoga thoạt nhìn có vẻ không liên quan đến nhau nhưng thật tế chúng là một thể thống nhất, Đó là một sự kết hợp hoàn hào để kích thích các tuyến hoạt động mạnh hơn. Đặc biệt là tuyến bôi trơn ở các khớp.
  • Mát-xa toàn bộ cơ thể: có lẽ yoga là loại hình duy nhất có thể mát-xa tất cả các tuyến nội bộ và các cơ quan trong cơ thể một cách toàn diện. Thậm chí với những tuyến khó bị kích thích từ bên ngoài như tuyến tiền liệt, yoga vẫn phát huy tác dụng một cách tối ưu. Các động tác của yoga tác động lên từng bộ phận khác nhau trong cơ thể. Nhờ vậy mà các cơ quan lần lượt được kích thích và mát-xa, giúp cơ thể tránh xa bệnh tật cũng như nguy cơ phát bệnh và rối loạn.
  • Bằng cách nhẹ nhàng căng cơ và khớp cũng như mát-xa các cơ quan khác nhau, yoga đảm bảo cung cấp tối đa lượng máu cho các cơ quan trong cơ thể. Giúp cơ thể thải các chất độc hại ra bên ngoài. Có tác dụng tích cực trong việc ngăn ngừa lão hóa,tạo năng lượng giúp người tập yêu đời, sảng khoái hơn.
  • Cải thiện cơ bắp: Với những cơ bắp không rắn chắc, bị nhão, chảy xệ, yoga sẽ giúp loại bỏ phần mỡ dư thừa,mang lại cho bạn cơ bắp rắn chắc,khỏe mạnh
Các lưu ý khi tập Yoga:
·         Giữ cơ thể sạch sẽ trước khi tập asana (ít nhất cũng nên rửa mặt mũi, chân tay).
Nên tập ở nơi không khí lưu thông tốt, không có khói bụi,
 nhưng không nên tập ngoài trời, bởi điều đó có thể khiến cơ thể phải hứng gió đột ngột và do vậy có thể cảm lạnh. 
N   Khi tập bất cứ tư thế nào, nếu bạn cảm thấy uncomfortable thì nên dừng lại ngay, relax và chuyển sang động tác khác.
·         Nên mặc đồ vừa vặn khi tập.
·         Nên tập asana trên một tấm thảm hoặc chiếu. Không nên tập asana trên nền đất trống bởi như vậy có thể bị cảm lạnh.
·         Chỉ tập asana khi lỗ mũi trái hoặc cả hai lỗ mũi đều thông: không tập asana khi hơi thở chỉ qua lỗ mũi phải.
·         Nên ăn thức ăn tinh khiết.
·         Không tập asana khi bụng đầy. Chỉ tập asana từ hai tiếng rưỡi đến ba tiếng sau bữa ăn.
·         Sau khi thư giãn ở tư thế xác chết, không tiếp xúc ngay với nước trong vòng tối thiểu là 10 phút.
·         Nếu phải đi ra ngoài sau khi tập asana khi nhiệt độ cơ thể chưa hạ xuống mức bình thường, hoặc nếu nhiệt độ trong phòng khác với nhiệt độ bên ngoài cần mặc quần áo cẩn thận khi ra ngoài. Nếu có thể, hãy hít sâu vào khi ở trong phòng và thở ra khi đi ra ngoài. Làm như vậy sẽ tránh được cảm lạnh.
·         Nếu bạn bị đau (cảm cúm...) không nên tập asana.
·         Hầu hết các tư thế căng giãn đều ảnh hưởng tới tử cung nên những phụ nữ trong thời kỳ kinh nguyệt hoặc trong vòng 6 tháng trước và sau khi sanh không nên tập ngoại trừ tư thế xác chết.
NHŨNG ĐIỂM BẤT LỢI CỦA YOGA
Giống như bất kỳ phương pháp luyện tập nào khác, yoga có thể là có lợi với người này nhưng chưa chắc đã có lợi với người khác. Xin đề cập những điểm bất lợi của yoga cho tất cả những ai đã, đang và có dự định tập yoga nên quan tâm các điểm này để tránh điều có hại cho bản thân.
1. Không có hiệu quả với người lười biếng

Tập luyện yoga đòi hỏi sự chậm rãi, cẩn thận và chính xác trong từng động tác. Vì vậy để có thể luyện tập yoga có hiệu quả người tập cần phải có sự nhẫn nại, kiên trì.

Ngay các văn bản cổ xưa của yoga cũng nói rằng môn này không thể đạt hiệu quả đối với những người phàm tục, lười biếng. Tất cả mọi người hiện đang luyên tập hay có dự định luyện tập yoga cần phải tâm niệm chú ý rằng tập yoga không phải là một trò chơi ở phòng khách hay một trào lưu nhất thời, càng không thể tập theo ý thích nhất thời hay theo ý muốn của người khác.

Tất cả các nguyên tắc rèn luyện của yoga đều phải tuân thủ đúng nên cần nhìn vào bản thân mà lựa chọn, và khi đã lựa chọn thì cần phải quyết tâm thực hiện tới cùng.

2. Gây hại cho trẻ em

Tập luyện yoga là cả một quá trình gồm luyện thở, luyện asana và luyện trí. Việc luyện tập này đòi hỏi người tập phải tập trung được ý chí và năng lực của bản thân bằng những động tác chậm rãi và trong không gian tĩnh lặng.

Vì vậy, yoga thật sự không thích hợp với trẻ nhỏ và thiếu niên dưới 15 tuổi, nếu tập luyện chỉ nên hướng dẫn giới hạn các em ở các phương pháp tập thở và cách ăn uống vệ sinh để giữ gìn sức khoẻ.

3. Ảnh hướng tới cơ bắp

Vì tập các asana, tất cả các khớp xương, cột sống và cơ thể đều phải vận động theo tư thế khó khăn hơn theo tư thế thông thường. Nếu người tập yoga vận động sai tư thế thì sẽ không chỉ ảnh hướng tới cơ bắp mà còn ảnh hưởng tới các khớp xương thậm chí có ảnh hưởng tới nhiều cơ quan trong cơ thể như hệ tiêu hoá, tuần hoàn…

Mặc dù những ảnh hưởng này có thể phục hồi được tuy nhiên việc chữa trị không phải là dễ dàng, có thể tốn thời gian và tất nhiên là cũng sẽ ảnh hưởng ít nhiều tới sức khoẻ.

4. Ảnh hưởng tới tiềm thức và hệ thần kinh

Như đã đề cập ở phần trên, trong yoga, để thành công, ngoài việc tập các asana, thì yếu tố quan trọng nhất là tập thở và tập trí. Trong tập tư thế, việc vận động sai chỉ có hại tới xương và cơ bắp và có thể phục lại hồi được.

Nhưng trong luyện thở việc luyện tập không chỉ đơn giản là vận động cơ thể, mà là việc tập trung toàn bộ sự chú ý của mình vào luyện thở thật chính xác, hít vào thì phải căng bụng lên thở ra thì phả thót bụng laị.

Việc này tưởng chừng như rất đơn giản nhưng trên thực tế việc có thể giữ nhịp thở đều đặn theo đúng quy tắc luyện tập không hề dễ dàng.

Đối với việc tập trí cũng vậy, theo yoga tâm trí là yếu tố quan trọng nhất trong cơ thể, là nơi điều khiển hoạt động của các bộ phận chiết xuất hormone giúp cơ thể sinh trưởng và phát triển cũng như ngăn chặn mọi bệnh tật. Tập trí là việc tập luyện giúp cho trí não có thể điều khiển một cách chủ động các tuyến nội tiết và luân xa tiết ra hormone.

Vì vậy, việc tập sai sẽ ảnh hưởng tới tiềm thức,
hệ thống thần kinh và dẫn đến những tác hại khôn lường như trầm cảm, ám ảnh, tẩu hoả nhập ma, bệnh thần kinh… Và không ai có thể đảm bảo hay khẳng định về việc phục hồi của những bệnh liên quan đến tâm trí của con người.

5. Ảnh hưởng gây chết người

Trong trường hợp người tập đã đi tới cảnh giới cao nhất của việc tập luyện yoga có nghĩa là đã có thể tác động sâu tới tiềm thức của bản thân tức là đã tìm được chìa khoá của bản thân nhưng không thoát ra được tức là không mở cửa được và không thể tỉnh lại, họ sẽ chết.

6. Ảnh hưởng tới người bị bệnh

Cơ thể con người được cấu tạo khác nhau và khả năng trí tuệ cũng như năng lự tập trung ý chí của mỗi người cũng không hề giống nhau, do đó các asana cần được chỉ dẫn riêng biệt cho từng người.

Chẳng hạn, tư thế cây nến không thích hợp với người bị đau lưng, bệnh tim mạch, huyết áp thấp,
đau đầu. Vì vậy, sẽ rất nguy hiểm khi tập yoga mà không có sự hướng dẫn chỉ bảo cặn kẽ của các nhà chuyên môn y tế hay thể thao.

7. Phấn khích quá đà

Có nhiều người gấp gáp tập luyện do muốn đạt hiệu quả nhanh hoặc tự tăng thời gian tập luyện gấp đôi nên sau một thời gian bị rơi vào tình trạng quá phấn khích. Hậu quả dẫn đến mất ngủ, tâm trạng bồn chồn, hay la mắng, cáu gắt.

Thứ Ba, 25 tháng 1, 2011

Kama Sutra - The art of Love


Một trong các tư thế trong sách Kama Sutra được thể hiện bằng điêu khắc trong đền thờ
 (Bài này lấy từ Blog của anh Nguyễn Trần Tiến - NCS ở Ấn Độ - có sửa chữa chút xíu)
Những mâu thuẫn trong tư tưởng của người Ấn về tình dục có thể được giải quyết thông qua việc tìm hiểu về bối cảnh lịch sử của nó. Chúng ta đều biết rằng, Ấn Độ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử tình dục, từ những tác phẩm văn học đầu tiên xem tình dục và quan hệ tình dục như là một khoa học, cho đến thời thời hiện đại, đó được coi là cội nguồn gốc của tư tưởng triết học tập trung vào nhóm “lứa tuổi mới” về nhận thức về tình dục. Có thể khảng định rằng Ấn Độ là quốc gia tiên phong trong việc đưa giáo dục tình dục thông qua nghệ thuật và văn chương. Trong xã hội Ấn Độ, đã có một sự khác biệt trong hành vi tình dục giữa đẳng cấp thường dân và những đẳng cấp quyền lực. Những người thuộc đẳng cấp cao thường có lối sống ăn chơi mà không được coi là đại diện của thái độ đạo đức chuẩn mực.
Ấn Độ, quốc gia có nền văn hóa có thể coi là cổ xưa nhất với nền văn minh Harappan nằm tại thung lũng sông Indus. Trong giai đoạn này, không có nhiều quan niệm về tình dục mà quan niệm tình dục chỉ là việc là thực hành nghi lễ sinh nở hay còn gọi là tín ngưỡng phồn thực. Và đây cũng có thể coi là mở đầu cho một hệ tư tưởng và triết học liên quan đến vấn đề tình dục.
Cho đến khi những bằng chứng đầu tiên về khái niệm quan hệ tình dục xuất phát từ các văn bản cổ của Hindu giáo, Phật giáo và đạo Jain, và đây có lẽ là bằng chứng lâu đời nhất còn sót lại trong kho tàng văn học cổ trên thế giới. Những văn bản cổ nhất như các kinh Veda đã nói lên quan điểm đạo đức về hôn nhân, tình dục và những lời cầu nguyện để có khả năng sinh sản. Các sử thi cổ đại Ấn Độ như Ramayana và Mahabharata được sáng tác từ năm 1.400 trước Công nguyên đã có một ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa lớn ở châu Á. Những tác phẩm văn học cổ này về sau còn có ảnh hưởng đến Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng và văn hóa Đông Nam Á.
Trong các văn bản cổ cho thấy thời kỳ Ấn Độ cổ đại, quan hệ tình dục được coi là một nhiệm vụ giữa một cặp vợ chồng, mà vợ hoặc chồng đều có nghĩa vụ làm thỏa mãn nhau. Những nơi diễn ra việc quan hệ tình dục được coi là chốn riêng tư và được sự chứng giám của thần linh tùy theo từng tôn giáo ở Ấn Độ. Lịch sử Ấn Độ cổ đại còn ghi nhận về sự tồn tại của chế độ đa thê. Trong thực tế, điều này dường như chỉ được thực hiện đối với những đẳng cấp cao còn với dân thường thì chỉ được duy trì hôn nhân một vợ một chồng. Điều này được phổ biến trong nhiều nền văn hóa cho phép giai cấp thống trị theo chế độ đa thê như một cách để duy trì triều đại kế tiếp.
Từ trước đến nay, cái tên Kama Sutra đã gợi cho chúng ta sự liên tưởng đến các câu truyện dâm tính. Thực tế là vậy, tuy nhiên, chỉ hiểu đến đó thì quả thực là chưa đầy đủ. Kama Sutra còn được coi là một cuốn sách Ấn độ cổ, biên khảo về tình dục được viết bằng tiếng Phạn. Tác phẩm gồm 7 phần, với khoảng 1.250 khổ thơ được cho là do thiền sư Bà la môn Mallanaga Vatsyayana, sống ở Pataliputra, phía bắc Ấn Độ, viết vào thế kỷ thứ III.
Theo tiếng Sanskrit “Kamadeva” là tên của vị thần tình yêu thể xác (tương tự thần Eros hay Cupid của Hy Lạp) và “Sutra” có nghĩa là “châm ngôn”. Kama Sutra được hiểu là những luận bàn về tình yêu thể xác. Những luận bàn đó có nguồn gốc từ nhiều thế kỷ trước công nguyên và đến thế kỷ thứ III, thì được Vatsyayana tập hợp lại thành tuyển tập với nhiều tranh minh hoạ, nhiều lời khuyên và nhiều hình ảnh mô tả tư thế tình dục.
Kama Sutra đề cập đến nhiều khía cạnh trong đời sống tình dục, như mô tả các tư thế giao hợp, những gì đôi bạn tình chờ đợi ở nhau và cả những lời khuyên hữu ích. Các khía cạnh  tình dục được Kama Sutra đề cập rất chi tiết, cụ thể, như vấn đề "kích thước" và hoà hợp tình dục; “lệch pha” thời điểm, lệch pha ham muốn; vai trò của trí tưởng tượng; những tư thế, kiểu vuốt ve, ôm ấp; cách sửa chữa thất bại khi không làm cho phụ nữ được thoả mãn...
Vatsyayanna đã đưa sự ân ái giữa người nam và người nữ trở thành một nghệ thuật, cũng như những nghệ thuật khác để trở thành nền tảng của hạnh phúc con người, hạnh phúc gia đình và hạnh phúc lứa đôi.
Tuy nhiên, quan niệm về tình dục phụ thuộc vào quan niêm và hiểu biết của mỗi con người cũng như vấn đề  tâm sinh lý. Những quan niệm cổ hủ, hẹp hòi về tình dục sẽ nhìn cuốn kinh sách này như một loại “dâm thư”. Tuy nhiên, cuốn kinh sách này đã khẳng định không chỉ ở Ấn Độ cổ đại mà trong xã hội hiện đại ngày nay trên mọi châu lục nó đã trở nên nổi tiếng không chỉ sự đóng góp của nó trong việc giáo dục tâm sinh lý cho con người, tạo nền tảng cho việc ngành tâm lý học và tình dục học, mà còn đóng góp vào nền văn chương trên toàn thế giới. Điều quan trọng hơn là nó không chỉ sử dụng trong thời kỳ Ấn Độ cổ đại đối với người thuộc đẳng cấp Bàlamôn mà cả giai đoạn sau khi các vương triều Hồi giáo Delhi Sultan và Đế chế Mughal thiết lập cai trị cho đến xã hội hiện đại ngày nay. 
Kama sutra với bản gốc được viêt bằng tiếng Sanskrit đã được nhà khảo cổ học nổi tiếng Richard Burton - người đã đóng góp công sức của mình phát hiện ra nền văn minh Veda cũng như nguồn của sông Nile - adịch sang tiếng Anh và phổ biến rộng rãi ở Châu Âu. Nội dung chính của cuốn kinh sách này gồm những phần sau:
Phần 1:
Chương 1: Lời bàn về ba điều cần thiết cho hạnh phúc ở đời: đức hạnh, của cải và lạc thú.
Chương 2: Nghiên cứu về sáu mươi bốn nghệ thuật.
Chương 3: Đời sống của một công dân: nhà cửa, công việc, tiêu khiển, bằng hữu.
Chương 4: Những phụ nữ không được phép giao hoan: bạn gái, người làm mai mối.
Chương 5: Ôm ấp, mơn trớn.
Chương 6: Nụ hôn.
Chương 7: Về các vết cào cấu gây ra bởi móng tay.
Chương 8: Cắn và các kỹ thuật khác.
Chương 9: Tư thế giao hoan.
Chương 10: Bạo dâm.
Chương 11: Nữ đóng vai trò chủ động.
Chương 12: Người ái nam ái nữ, quan hệ bằng miệng.
Chương 13: Cách khởi đầu và kết thúc một cuộc giao hoan.
Phần 2: Kén vợ.
Chương 1: Bàn về sự hứa hôn và kết hôn.
Chương 2: Chinh phục lòng tin của một trinh nữ.
Chương 3: Tỏ tình, tìm hiểu tình cảm của đối phương
Chương 4: Đàn ông muốn bảo vệ lứa đôi, phụ nữ muốn chi phối và kiểm soát đàn ông.  
Chương 5: Các hình thức hôn nhân.
Phần 3: Người vợ.
Chương 1: Nếp sống của người đàn bà đức hạnh, các xử sự khi vắng chồng
Chương 2: Các quy tắc trong quan hệ vợ chồng
Phần 4: Vợ của người khác.
Chương 1: Đặc tính của phái nam và phái nữ.
Chương 2: Cách giao tiếp và những yếu tố cấn thiết để chinh phục phụ nữ.
Chương 3: Đánh giá phụ nữ.
Chương 4: Nhiệm vụ người làm mai.
Chương 5: Tình yêu của kẻ dan díu với vợ người khác.
Phần 5: Gái điếm
Chương 1: Hôn lễ tạm thời của gái mại dâm.
Chương 2: Gái điếm sống như vợ một người đàn ông
Chương 3: Những mánh khóe moi tiền của gái mại dâm.
Chương 4: Tái hợp với người tình cũ.
Chương 5: Những điều lợi
Chương 6: Lạc thú, tổn thất, nghi ngờ, các loại gái làng chơi
Phần 6: Cám dỗ
Chương 1: Những cách hấp dẫn người khác phái, những cách làm tăng khả năng QHTD.
Chương 2: Phương pháp kích thích phụ nữ, kỹ thuật tăng kích thước dương vật

Toàn bộ triết lý chính nằm trong Kama sutra nhằm vào Dharma, Artha và Karma thể hiện vòng quay của cuộc đời mỗi con người. Đó chính là lẽ tự nhiên, phù hợp với quy luật tự nhiên sinh tồn và hơn nữa đó là sư tương tác giữa con người với thiên nhiên và ngược lại. Đây còn được coi là ba nguyên lý căn bản về sự hiện hữu của con người.
Có thể nói đây là một tác phẩm về khoa hoc yêu đương. Tại phương Đông, cùng với hai nền văn minh rực rỡ của Ấn Độ và Trung Quốc, hai bộ sách tính dục Kamasutra và Tố nữ kinh xứng đáng là những tác phẩm cổ điển đề cập một cách sâu sắc đến lạc thú gối chăn trên bình diện khoa học. Bên cạnh những giá trị về tinh thần, Kama sutra còn để lại cho nhân loại nhiều giá trị về mặt nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc vẫn còn hiện hữu trên đất nước Ấn Độ và thế giới.

Version này bán trong hiệu sách ở Great India Place với giá gần 1000 rs

Rất dễ mua sách Kama Sutra ở Ấn Độ. Hầu như hiệu sách nào cũng có. Giá cả rất khác nhau, tùy độ dày mỏng, chi tiết,... của version đó. Version như dạng sổ tay hay được bán rong ở gần các điểm thăm quan, có thể bằng tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha...(nhưng chưa thấy version  tiếng Việt!!!) - Một món quà hữu ích cho bạn bè khi bạn đi du lịch, nhỉ!? 

P/S: Phim "Kama Sutra - A Tale of Love" cũng là 1 bộ phim đáng xem. Có rất nhiều cảnh sex rất hấp dẫn.

Đám cưới ở Ấn Độ - Gánh nặng hồi môn và sự Show off


Đám cưới là một điều cực kỳ trọng đại ở Ấn Độ,  đó được coi là một nghi lễ tín ngưỡng và là nơi để khoa trương sự giàu có.
Ngày nay, 95% số cuộc hôn nhân tại Ấn vẫn là hôn nhân sắp đặt. Đám cưới tại đây không phải là trai gái lấy nhau, mà là... hai dòng họ, thậm chí cả hai doanh nghiệp lấy nhau. Dù là tình yêu thực sự đi nữa thì việc tổ chức lễ cưới vẫn phải do cha mẹ hay các bậc trưởng bối lo liệu.
Mùa cưới  trong khoảng tháng 11 đến tháng 2 hàng năm. Người ta nói chính nhu cầu cưới hỏi tại Ấn Độ đã làm cho giá vàng thế giới tăng vọt trong những năm gần đây. Một đám cưới thường có giá từ 20.000 USD cho đến 2 triệu USD! Voi và trực thăng là 2 phương tiện rước dâu đang được ưa chuộng bên cạnh các loại xe đắt tiền để show up sự giàu có của gia đình. 

Thông thường thì nhà trai là bên được quyền thách cưới (ngược lại với VN). Sau khi nhà gái đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của bên nhà trai (thường là món tiền, vàng lớn, xe oto hoặc có khi là cả 1 căn hộ) thì đám cưới sẽ được tổ chức. Chính vì gánh nặng của hồi môn mà nhiều cô gái không lấy được chồng do gia đình nghèo, nhiều bé gái bị giết khi vừa sinh ra, nhiều thai nhi nữ bị phá... dẫn đến sự mất cân bằng tỉ lệ nam nữ khá nghiêm trọng (Xem lại bài về Ahmedabad). 

Tờ rơi kêu gọi bảo vệ thai nhi nữ và các bé gái của bang Gujarat
Khi đưa thiệp mời đám cưới, thường kèm theo tấm thiệp rất cầu kỳ và đẹp đẽ là 1 gói quà nhỏ thường là các loại hạt khô (như nho, hạnh nhân…) được bọc gói cầu kỳ (Xem ảnh).
(Mình suýt được dự đám cưới này – nếu như bị lỡ máy bay thêm 2 ngày nữa!)

Trong lễ cưới, cô dâu thường đeo rất nhiều trang sức bằng vàng và mặc Sari, màu đỏ là chủ yếu nhưng không được mặc màu trắng vì theo quan niệm của người Ấn, màu trắng là màu tang tóc. Chú rể mặc áo dài etchkin truyền thống và đội khăn xếp.
Cô dâu chú rể trong đám cưới của người Ấn
Cha của cô dâu sẽ làm nghi thức gả con gái bằng cách trao một vạt áo của cô dâu cho chú rể. Chú rể sẽ dắt cô dâu đi vòng quanh cuốn Kinh Thánh 4 lần, với sự trợ giúp của các anh chị em. Sau đó, cô dâu và chú rể sẽ ngồi trên “ngai” – ghế đặc biệt dành cho tân lang, tân nương – đặt ở trung tâm hội trường cưới. Người thân, bạn bè sẽ đến chúc tụng cho 2 người và tặng họ những món quà là đồ dùng hoặc trang sức, tiền, vàng… Cuối cùng, vị chủ tế sẽ ban lời chúc tụng và đưa ra những lời khuyên, rằng hai người giờ đây đã trở nên một tâm hồn, phải sống yêu thương nhau trọn đời. Đám cưới thường kéo dài vài ngày  thậm chí cả tuần.
Đây là cái "ngai" mà cô dâu chú rể sẽ ngồi trong tiệc cưới

Và đám cưới là cơ hội để người ta khoe của. Chẳng hạn, đầu năm 2004 ông chủ tập đoàn Sahara - Subrata Roy đã mời 10.000 khách đi trên 26 chiếc máy bay Boeing khổng lồ đến Lucknow, thuộc miền Bắc Ấn Độ, dự đám cưới của hai đứa con trai cùng lúc, chi phí lên đến 128 triệu USD!  Dù là kẻ keo kiệt nhất cũng phải mời đến mấy trăm khách, đãi tiệc nhiều ngày liền và có thể dẫn đến phá sản cho gia chủ hoặc mắc nợ lớn đối với gia đình cả hai bên. Bởi ví họ có tính so bì rất lớn, danh tiếng và đẳng cấp của gia đình được đánh giá qua đám cưới.
Henna - nghệ thuật vẽ lên tay, chân của người Ấn. Cô dâu Ấn thường được "trang trí" tay ntn trong đám cưới. Trong các ngày lễ (như Diwali...) các cô gái cũng hay vẽ ntn. Mình thấy nó ko được clean lắm nên từ chối vẽ dù được mời thử
Cô dâu sẽ đeo các vòng tay này trong 45 ngày sau đám cưới, sau đó mới được bỏ bớt đi. Thế nên đi đường mà nhìn thấy cô gái nào đeo vô thiên lủng các loại vòng tay thì có thể biết là cô đó mới lấy chồng. Con nhà giàu sẽ đeo các vòng bằng vàng, bạc, nạm kim cương... Đơn giản hơn thì đeo các loại vòng mỹ ký. Nhưng dù gì thì mỗi cô dâu cũng đeo rất nhiều trang sức bằng vàng, từ đầu, tai, mũi, tay, eo, vòng chân, nhẫn chân. 
Người Ấn chọn ngày tốt cho đám cưới nên chỉ trong một vài đêm có thể diễn ra hàng triệu đám cưới cùng lúc trên cả nước. Tại New Delhi, có đêm diễn ra 15.000 đám cưới, gây ùn tắc giao thông từ tối đến sáng cho 14 triệu người, bởi vì hàng trăm ngàn chiếc xe hơi đậu bừa bãi bên lề đường và sau đó chủ nhân của chúng say xỉn chạy lạng quạng trở về nhà. Tòa án New Delhi đã ra lệnh cấm làm đám cưới tại công viên và diễu hành trên đường phố.
                     Đây là video clip về Amazing wedding in DC - xem để biết thêm về sự cầu kỳ và xa hoa trong đám cưới của người giàu Ấn Độ - Trong đám cưới này sử dụng rất nhiều các bài hát và điệu nhảy như trong film "Singh is King" - một bộ phim khá hấp dẫn của Bolliwood





Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2011

Cơn sốt "bưởi"!


1.    Không hiểu tại sao dạo này dân HN lại thích bưởi đến vậy?! Vào công ty, cơ quan nào vào dịp này cũng thấy la liệt bưởi. Túi to túi nhỏ chất khắp các văn phòng. Nhà nhà ăn bưởi, người người rủ nhau mua bưởi. Nào là nhờ người quen có gốc gác ở Diễn mua bưởi Diễn thật với giá 4-5 chục ngàn một quả. Nào là đặt bưởi Đoan Hùng, đặt hàng bưởi da xanh... Ngoài chợ đầy bưởi Diễn fake, cũng màu vàng, cũng tròn tròn, và có thể cũng lấy giống từ Diễn nhưng được trồng cách Diễn cả trăm dặm! Trái bưởi Diễn fake thường to hơn bưởi Diễn thật, ăn nhạt và có  khi vô duyên như ăn nhầm gạo sống hoặc may ra thì giống khoai lang sống! Ngoài bưởi Diễn thì có bưởi da xanh, bưởi Đoan Hùng, bưởi 5 roi – loại này phổ biến nhất. 
Hôm qua vừa đến 1 công ty là đối tác của công ty mình, gọi cửa mãi mới thấy có người mở. Vào trong thì thấy duy nhất có 2 người đang phân chia tầm 4-5 tải bưởi, mỗi tải phải chứa hàng trăm trái. Hóa ra công ty này đánh cả xe oto bưởi từ trong Nam ra (nghe nói là nhân chuyến công tác nào đó), rồi chia cho mỗi nhân viên trong công ty dăm trái gọi là quà Tết! Bác Mgr ở công ty này quả là thức thời – vừa đánh trúng tâm lý mê bưởi của rất nhiều người năm nay, vừa tiết kiệm so với việc tặng mỗi NV một túi quà bánh kẹo rượu bia. 
Công ty mình thì cũng chả kém! Thấy một chị phòng thiết kế mang đến mấy quả bưởi 5 roi (rưỡi) ăn có vẻ ổn ổn, thế là mấy cô cậu trong phòng liền nhờ bà chị đó mua cho mỗi người mấy chục quả để ăn Tết! Bà chị nọ liền gọi cho đại lý bưởi mang đến 100 quả để mọi người chia nhau. Cô M phòng mình lấy 20 quả, cậu V lấy 30 quả… 
Bưởi 5 roi đầy ngoài đường, chả phải hiếm hoi gì mà mọi người mua như là ngày mai tất cả các cây bưởi trên cái đất VN này sẽ bị chặt hết hay sao ấy! Cái giống 5 roi này không để lâu như bưởi Diễn hay bưởi Đoan Hùng được, mình đã từng phải vứt đi mấy quả vì chỉ để quên trên bàn thờ mấy ngày. Chuối thì chưa chín mà bưởi đã hỏng! 
Theo mình, trào lưu ăn bưởi năm nay có vẻ lên đến đỉnh cao! (cũng giống như những trào lưu khác như nuôi chó Nhật những năm 90, trào lưu xài Ipod, Ipad, Iphone chỉ để nghe và nhắn tin…). Thế mới thấy người Hà Nội rất thích chạy theo phong trào! (Riêng mình chả việc gì phải chạy theo phong trào, mình không thích cái gì cũng giống người khác! Nhưng tự dưng thèm món nước bưởi ép có 5.000 đ một bịch ở đường Bùi Thị Xuân, Q1. Haiiiii, nhớ Sài Gòn dễ sợ!)
2.    Ngoài bưởi “nghĩa đen” thì trào lưu bây giờ đang rộ đó là khoe “bưởi silicon”! Mở bất cứ một tờ bào nào, bật bất cứ 1 trang web nào cũng thấy các title như: Người đẹp A khoe vòng 1 nóng bỏng, Ca sĩ B hững hờ với vòng 1 hấp dẫn, Hot girl C đọ vòng 1 với người mẫu D, hoa hâu X gợi cảm với vòng 1 bắt mắt, cô Y hững hờ với áo cổ trễ… 
Cái áo trở nên thừa...
 Dường như tất cả những women trong giới showbiz hay liên quan đến showbiz và cả những cô gái thích nổi bật trên internet đều cố diện những chiếc váy, chiếc áo để lộ thật nhiều ngực! Áo không có cổ thật trễ thì phải cởi thật nhiều cúc để “khoe khéo” (nói thẳng là show up) bộ ngực của mình. Tất cả dường như phát rồ với việc phải khoe vòng 1 nên chắc chắn các cô mình hạc xương sườn khoe cả bộ sẽ phải “bơm”, phải đẩy, phải ép cho nó thật “nở” ra để thu hút sự chú ý của công chúng. Có những cô gái trở nên rất nổi tiếng, luôn được các báo nhắc đến thường xuyên, chẳng phải vì cô ấy tài giỏi, hát hay... mà chỉ bởi vì cô ấy có bộ ngực khủng và cô ấy luôn khoe ngực ở bất cứ nơi nào, như một thứ công cụ câu "view" số 1 vậy!
Mình không phản đối việc làm đẹp của các cô, nhưng dường như một số người hơi lạm dụng việc “bơm vá” nên bộ ngực đồ sộ chả ăn nhập gì với bộ xương sườn xương xẩu! Trông cứ như bưởi 5 roi được treo trên cây quất vậy!

Thứ Năm, 20 tháng 1, 2011

China town ở Ấn Độ - Tại sao sắp biến mất?


Ở Ấn Độ, duy nhất có 1 khu China Town ở phía đông thành phố Kolkata. Người TQ di cư đến đây từ hơn 230 năm trước với dân số lên đến 20.000 người nhưng hiện nay chỉ còn khoảng 2.000 người và ngày càng ít đi. Người ta nói rằng không lâu  nữa nó có thể biến mất hoàn toàn.  Vậy lý do gì khiến dân TQ vốn nổi tiếng là di cư khắp nơi trên TG không thể tồn tại và phát triển được ở một đất nước rộng  lớn như Ấn Độ?  Hãy tìm hiểu thêm về mối quan hệ giữa TQ và Ấn Độ nhé. 



Khi con voi và con rồng đá chân nhau

1. Những chấn thương của lịch sử để lại
Mọi quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc đều bị chi phối bởi vấn đề biên giới vẫn chưa giải quyết từ hơn 50 năm nay. Trung Quốc và Ấn Độ giáp nhau trên 3 550 cây số, được phân cách bởi dãy núi Himalaya hiểm trở và vùng cao nguyên Tây Tạng. Trong nhiều thế kỷ, Tây Tạng là vùng đệm giữa hai nước. Sau khi Trung Quốc chiếm Tây Tạng năm 1950, hai vùng đệm hiện nay là hai nước Nepal và Bhutan, nằm ở phía nam dãy Himalaya.
Aksai Chin hiện thuộc quyền quản lý của Trung Quốc nhưng Ấn Độ coi như thuộc về mình và đòi lại. Ngược lại, Arunachal Pradesh là một tiểu bang của Ấn Độ nhưng Trung Quốc lại coi là thuộc về Tây Tạng và đòi Ấn Độ trả lại. Kashmir là vùng tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan, mỗi bên chiếm một nửa và đòi bên kia phải trả phần còn lại. Mâu thuẫn giữa Ấn Độ và Trung Quốc ở Kashmir là vì Trung Quốc ủng hộ Pakistan.
Trong những thế kỷ trước Trung Quốc và Ấn Độ rất ít quan hệ vì địa lý cản trở. Khi hai nước giành độc lập và thoát khỏi ách ngoại bang vào cùng thời điểm, đường biên giới do các nước thực dân ấn định trở thành đầu mối cho những xung đột có khi dẫn đến chiến tranh. Bản tuyên ngôn độc lập năm 1947 cũng chia cắt lãnh thổ Ấn Độ thành hai nước Pakistan và Liên bang Ấn Độ. Một sự phân chia đẫm máu: từ 300 000 đến 500 000 người bị thảm sát trong các cuộc chém giết lẫn nhau của hai cộng đồng hồi giáo và Hindu giáo, và từ 10 đến 15 triệu người di cư từ vùng này sang vùng kia. Sự chia cắt đất nước và ba cuộc chiến tranh Ấn Độ- Pakistan tiếp nối nhau (1947-1948, 1965, 1971) để giành giật vùng Kashmir vẫn là vết thương nhức nhối truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Ấn Độ. Việc Trung Quốc luôn là đồng minh đắc lực của Pakistan chỉ có thể thêm một ung nhọt cho quan hệ đã căng thẳng giữa hai nước. Trung Quốc cũng không ngần ngại dùng Pakistan để cảnh báo Ấn Độ ngay cả những lúc hai bên vui vẻ với nhau nhất: ngay sau khi viếng thăm Ấn Độ tháng 11.2006, chủ tịch Hồ Cẩm Đào bay sang Pakistan, như để nhắc lại một trong những điểm bất di bất dịch của mình. Chính sách "tay đấm tay xoa" này cũng thể hiện qua việc đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ Sun Yuxi , chỉ một tuần trước khi ông Hồ Cẩm Đào sang, tuyên bố: "Quan điểm của chúng tôi là toàn bộ tiểu bang Arunachal Pradesh thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Chúng tôi đòi lại tất cả." Khiến cho bộ trưởng ngoại giao Ấn Pranab Mukherjee phải đối đáp lại: "Arunachal là một bộ phận của Ấn Độ".
Mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong vùng Kashmir cũng không chỉ vì Pakistan mà còn vì một khu vực hai bên trực tiếp tranh giành nhau. Aksai Chin là một vùng đất rộng 38 000 cây số vuông, ở độ cao 5 000 thước, hoang vu và khô cằn, rất ít dân cư nhưng ở vị trí chiến lược giữa ba nước Pakistan, Ấn Độ và Trung Quốc. Aksai Chin ngày xưa thuộc về vương quốc Ladakh nhưng được sát nhập vào Ấn Độ thuộc đế quốc Anh khi Anh và Tây Tạng (lúc ấy còn độc lập) ký hiệp ước năm 1904, ấn định biên giới giữa Tây Tạng và Ấn Độ theo đường ranh giới Mac Mahon. Trung Quốc lúc ấy không công nhận Tây Tạng là nước độc lập nên cũng không công nhận đường Mac Mahon. Vì vị trí chiến lược của Aksai Chin, nằm trên quốc lộ 219 của Ấn Độ nối Tây Tạng và tỉnh Sinkiang (Tân Cương), Trung Quốc nhất định giữ quyền kiểm soát khu vực này.

Trung Quốc cũng đòi lại một khu vực rộng khoảng 82 000 cây số vuông ở Đông Bắc Ấn Độ hiện là tiểu bang Arunachal Pradesh nhưng Trung Quốc thường gọi là Zangnan (Tạng Nam). Arunachal Pradesh có hơn 1 triệu dân, đại đa số gốc Tây Tạng, Miến Điện và Thái, chỉ khoảng 15% là di dân từ các vùng khác của Ấn Độ, đặc biệt là hai tiểu bang lân cận Assam và Nagaland. Tại hội nghị Simla năm 1913-1914, thống đốc Anh Sir Henry Mac Mahon ấn định biên giới giữa Ấn Độ và Tây Tạng theo một đường ranh giới mệnh danh là "đường Mac Mahon" (Mac Mahon Line) nhằm nới rộng vùng kiểm soát của Anh và tạo ra một số vùng đệm. Các đại diện Anh và Tây Tạng tại hội nghị thông qua đường ranh giới này nhưng Trung Quốc chối từ ký hiệp định vì khẳng định Tây Tạng thuộc chủ quyền của mình và đường Mac Mahon vô giá trị. Năm 1950, thấy Trung Quốc sửa soạn chiếm Tây Tạng, Ấn Độ đơn phương ấn định biên giới theo đường Mac Mahon tuy Trung Quốc phản đối. Trong hơn 10 năm sau đó, vấn đề lắng dịu nhờ không khí hoà hoãn giữa hai nước, nhưng bùng lên trở lại với cuộc chiến tranh biên giới Ấn-Trung năm 1962. Trung Quốc kéo quân sang chiếm đa số khu vực này nhưng sau khi tuyên bố chiến thắng, rút trở lại sau đường Mac Mahon.
2. Vấn đề Tây Tạng và chiến tranh biên giới năm 1962
Sau khi lên nắm chính quyền, Mao Trạch Đông tuyên bố Tây Tạng thuộc về Trung Quốc và quyết tâm đặt Tây Tạng dưới quyền kiểm soát hành chính và quân sự của mình. Đối với Bắc Kinh, sự quan tâm của Ấn Độ đến vùng này là can thiệp vào nội bộ Trung Quốc. Tuy Ấn Độ thừa kế một số đặc quyền tại Tây Tạng từ thời còn thuộc về Anh Quốc, thủ tướng Nehru, để trấn an Trung Quốc, khẳng định Ấn Độ không có tham vọng chính trị hay đất đai gì ở Tây Tạng, và cũng không đòi hỏi đặc quyền gì ở đó, nhưng mong muốn duy trì các quyền lợi thương mại cố hữu. Trước thái độ mềm mỏng ấy, Trung Quốc yên tâm tiến hành mưu đồ của mình và tháng 10. 1950 đem 40 000 quân tấn công Tây Tạng cùng lúc ở 6 nơi. Chỉ trong hai ngày, quân đội Trung Quốc đã giết hơn một nửa quân đội nhỏ nhoi và non nớt của Tây Tạng, chỉ có 8 000 người. Ấn Độ tuy bàng hoàng và phẫn nộ cũng không làm được gì để ngăn cản bước tiến của Trung Quốc. Chính quyền Tây Tạng cầu cứu đến cộng đồng quốc tế và Liên Hiệp Quốc nhưng rồi cũng bị ép buộc ký với Bắc Kinh, tháng 5.1951, một hiệp định "17 điểm" trong đó Tây Tạng công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên lãnh thổ nhưng được duy trì hệ thống chính trị và xã hội của mình. Ngày 9.9.1951, 23 000 quân Trung Quốc tiến vào thủ đô Lhassa, mở đầu cho bi kịch của người dân Tây Tạng, còn kéo dài đến ngày nay. Chưa đầy một năm sau, Bắc Kinh bắt đầu siết chặt sự kiểm soát, áp đặt những biện pháp xoá bỏ các truyền thống văn hoá và xã hội của Tây Tạng và tăng cường đàn áp sự kháng cự. Tháng 3.1959, sau một cuộc nổi dậy thất bại ở Lhassa, Đức Đại La Lạt Ma và hàng ngàn người Tây Tạng phải bỏ xứ đến nương náu tại những vùng Tây Bắc  Ấn Độ, tập trung ở tiểu bang Himachal Pradesh. Giòng chảy những người từ Tây Tạng đến tị nạn ở Ấn Độ không còn ào ạt như trong những năm đầu nhưng vẫn tiếp tục. Sự hiện diện của Đức Đại La Lạt Ma và một cộng đồng Tây Tạng ở Ấn Độ vẫn là một điều làm Trung Quốc khó chịu, dẫu tháng 6.2003, Ấn Độ đã chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Tây Tạng và tuyên bố không hỗ trợ những hoạt động chống lại Trung Quốc của cộng đồng Tây Tạng tại Ấn Độ.
Tại sao Trung Quốc lại muốn có Arunachal?

Các chuyên gia quân sự Ấn Độ cho rằng tầm quan trọng của Arunachal đối với Trung Quốc nằm ở yếu tố địa lý. Việc kiểm soát Arunachal sẽ giúp quân đội Trung Quốc nếu cần có thể tràn qua Thung lũng Brahmaputra và phần còn lại ở phía đông bắc Ấn Độ.

Trong khi những chuyên gia khác lại cho rằng Trung Quốc tìm cách đòi chủ quyền đối với khu vực Arunachal, và cụ thể là Tawang, là nhằm để củng cố quyền kiểm soát đối với Tây Tạng. Tawang chính là nơi sinh của Đạt La Lạt Ma đời thứ 6 và Tu viện Tawang, tổ đình của Phật Giáo Ðại Thừa Ấn Ðộ, là nơi tôn tàng pho tượng Ðức Phật cao 80 bộ nổi tiếng chỉ đứng thứ nhì sau Tu Viện Lhasa trên thế giới. Tu viện Tawang “thực sự là một kho báu của văn hoá và tín ngưỡng Phật giáo Tây Tạng".  Người Tây Tạng coi tu viện Tawang là nơi cất giữ những dấu vết còn lại cuối cùng của một Tây Tạng đã bị văn hoá của người Hán Trung Quốc nhấn chìm.

Các học giả Trung Quốc cho rằng việc kiểm soát Tu viện Tawang sẽ giúp Bắc Kinh “giành được trái tim của những người Tây Tạng".

Việc Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng bằng vũ lực cũng là một đòn nặng đối với bản thân thủ tướng Nehru và thuyết sống chung hoà bình của ông. Tuy bị chỉ trích trong nội bộ là ngây thơ và yếu hèn, ông Nehru vẫn gắng gượng dĩ hoà vi quí vì tin rằng Ấn Độ cần phải hoà hảo với Trung Quốc để rảnh tay xây dựng kinh tế.

Sau khi lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh tháng 4.1950, Ấn Độ ký với Trung Quốc một hiệp định tháng 4.1954 về Tây Tạng và đặt nền tảng cho quan hệ giữa hai nước, trên cơ sở 5 nguyên tắc sống chung hoà bình (Panchsheel). Câu khẩu hiệu quen thuộc thời đó là "Hindi-Chini bhai-bhai" tức "Ấn Độ và Trung Quốc là anh em". Nhưng tình huynh đệ này cũng chỉ kéo dài được vài năm trước khi vỡ tan với cuộc chiến tranh biên giới năm 1962. (Điểm này sao giống Việt Nam zậy?!)

Cho đến ngày nay Trung Quốc và Ấn Độ vẫn còn bất đồng về những lý do đưa tới chiến tranh và đổ lỗi cho nhau. Một điều chắc chắn là ở đây có nhiều yếu tố: tình hình Tây Tạng, vai trò Trung Quốc gán cho Ấn Độ trong cuộc nổi dậy ở Lhassa và nhất là việc Đức Đại La Lạt Ma chạy sang Ấn Độ; những đụng độ liên tiếp giữa các đội biên phòng của hai nước, và chính sách "tiến tới" (Forward Policy) của Ấn Độ thực hiện qua việc xây cất khoảng 60 tiền đồn trong đó 43 là ở phía bắc đường Mac Mahon, đối với Trung Quốc là bằng chứng của một mưu đồ bành trướng. Từ tháng 6.1962, các cuộc chạm súng leo thang thành chiến tranh thực sự ngày 10.10.1962 khi quân đội Trung Quốc tràn sang Aksai Chin và Arunachal Pradesh, đánh bại các đội phòng vệ và tiến sâu vào lãnh thổ Ấn Độ. Cuộc chiến bất quân bình giữa bên Trung Quốc, đông đảo và dạn dày hơn, và bên Ấn ít kinh nghiệm và thiếu chuẩn bị, kết thúc chớp nhoáng, chỉ hơn một tháng sau, khi Trung Quốc tuyên bố chiến thắng và đơn phương ngừng bắn. Số tử trận và tù binh phía Trung Quốc không được thông báo còn phía Ấn Độ chết 1 383 người, bị bắt làm tù binh 3 968 người và mất tích 1 696 người. Chiến tranh chính thức chấm dứt khi Trung Quốc trả tù binh rồi rút về phía bên kia đường Mac Mahon. Một lý do tại sao Trung Quốc không "thừa thắng xông lên" mà tỏ ra rộng lượng biết điều là vì cùng lúc ấy, thế giới đang rúng động về vụ khủng hoảng tên lửa ở Cuba, khiến cuộc chiến tranh Ấn-Trung bị các nước Tây phương xem như một hành động gây hấn khác của khối Cộng sản. Tuy thắng thế dễ dàng nhưng Trung Quốc khôn ngoan hiểu là nên dừng lại ở đó và nhanh chóng giải quyết tranh chấp.

Cuộc chiến tranh biên giới đánh dấu một sự chuyển hướng triệt để trong đường lối ngoại giao và quân sự của Ấn Độ. Ông Nehru bị chỉ trích nặng nề là đã không đo lường được tình thế, chính sách hoà hảo với Trung Quốc và các lý thuyết sống chung hoà bình trên cơ sở bất bạo lực do ông đề xướng bị thực tế phủ nhận phũ phàng, và giấc mơ của ông xây dựng một trục Ấn Độ-Trung Quốc cùng nhau chế ngự châu Á tan như bong bóng.

Ấn Độ rút ra cho mình bài học là phải xây dựng sức mạnh quân sự và tự bảo vệ nếu muốn có chỗ đứng trên thế giới, quay sang Liên Xô và bắt đầu ra sức trang bị vũ khí. Trung Quốc và Ấn Độ bước vào một thời kỳ lạnh nhạt và đối nghịch kéo dài cho đến cuối thập niên 1980.

Sự bại trận năm 1962 cũng là nỗi tủi hổ của người Ấn cho tới ngày nay và tiếp tục chi phối cái nhìn của Ấn Độ về Trung Quốc, nuôi dưỡng một tâm trạng phức tạp: mặc cảm, tự ái, nghi ngại và tị hiềm pha lẫn nể phục và thèm muốn. Nhiều nhà phân tích, kể cả người Ấn, nhận xét: "Trung Quốc là nỗi ám ảnh của Ấn Độ". Một ám ảnh đi đôi với một nỗi day dứt thường kỳ khác: được xem như một cường quốc, ít ra là trong khu vực, nếu không trên toàn thế giới. Đáp lại khát vọng này là thái độ kẻ cả, có khi khinh thường của Trung Quốc khiến cho Ấn Độ càng bức bối. Một thí dụ: khi ông Atal Bihari Vajpayee, lúc đó là bộ trưởng ngoại giao, đến thăm Trung Quốc tháng 2.1979, ông đã phải hấp tấp về sớm hơn một hôm vì Trung Quốc tấn công biên giới bắc của Việt Nam ngay lúc ấy và còn tuyên bố "sẽ cho Việt Nam một bài học như đã cho Ấn Độ một bài học năm 1962"! Một câu nói vừa gây căm phẫn trong dư luận Ấn Độ, vốn có nhiều cảm tình với Việt Nam và đã nhớ ngay đến kinh nghiệm của chính mình, vừa cho thấy Trung Quốc sẵn sàng "chơi cha" Ấn Độ, chả coi anh ta ra gì.

Cũng vì mong muốn xác định cương vị của mình trên thế giới nên Ấn Độ yêu cầu  tham gia Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc với tư cách thành viên thường trực. Tuy Trung Quốc tuyên bố chính thức ủng hộ nguyện vọng này nhưng cho tới nay hồ sơ của Ấn Độ bị gắn liền với yêu cầu cùng mục đích của Nhật, mà Trung Quốc thì nhất định không cho Nhật tăng cường vai trò của mình, khiến Ấn Độ rất sốt ruột và bất bình.

Do đó không ngạc nhiên khi thấy đối với Ấn Độ, Trung Quốc là một sự nhức đầu kinh niên. Ngay cả việc chọn thái độ, cách đối xử với Trung Quốc cũng là một đề tài tranh cãi trong nội bộ Ấn Độ.

Chọn thế đứng trước con rồng

Theo vài nhà phân tích, ở Ấn Độ có ba cách cảm nhận và phản ứng trước sự vươn lên và sức mạnh của Trung Quốc: một là thán phục và khiếp sợ và do đó nghĩ rằng cần phải cầu an với Trung Quốc; hai là coi Trung Quốc như mối đe doạ nhưng trong tương lai xa, cho nên phải tăng cường sức mạnh kinh tế và quân sự của để giao lưu với Trung Quốc hầu kềm chế và cân bằng ảnh hưởng (check and balance), và ba là coi Trung Quốc như mối đe dọa lớn và ngay trước mắt, và vì thế phải đối xử như Trung Quốc đã đối xử với Ấn Độ: áp dụng chính sách ngăn cản và bao vây (containment–cum-encirclement).

Trường phái thứ nhất là nhóm lobby ủng hộ Trung Quốc: các đảng viên đảng cộng sản, trí thức thiên tả, một số nhà báo, những người chống chiến tranh, chống hạt nhân, chống Mỹ và những người lý tưởng. Ngoài ra còn có một số doanh nhân làm ăn với Trung Quốc và những người cảm thấy gần gũi với Trung Quốc về chính trị hay ý thức hệ. Có lẽ tiêu biểu cho nhóm này là quốc vụ khanh đặc trách thương mại Jairam Ramesh, người đã chế ra từ "Chindia" để miêu tả viễn tượng một sự hợp tác khăng khít giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Trong dịp chủ tịch Hồ Cẩm Đào thăm Ấn Độ tháng 11.2006, ông Ramesh tuyên bố trước Hiệp hội các công nghiệp Ấn Độ: "Chúng ta có còn chạy đua gì nữa đâu. Họ đã ăn đứt chúng ta rồi".

Trường phái thứ ba là nhóm diều hâu chống Trung Quốc, qui tụ một số trí thức dân tộc chủ nghĩa cực đoan và giới lãnh đạo quân sự. Không ít người Ấn, ngay cả giới trẻ, hoặc có thành kiến hoặc không biết mấy gì về Trung Quốc. Đối với họ Trung Quốc là đồng nghĩa với chiếm đóng Tây Tạng, xâm lăng Ấn Độ năm 1962, đồng loã với kẻ thù truyền kiếp là Pakistan, mưu toan thôn tính nước họ.

Song đại đa số người Ấn thuộc vào trường phái thứ hai, họ là các viên chức nhà nước, đa số giới nhà báo và trí thức, các doanh nhân, và những người có cái nhìn thực tế và ôn hoà. Họ nhận thức được ảnh hưởng thuận lợi của các cải cách và bước tiến kinh tế của Trung Quốc trên châu Á và Ấn Độ nhưng cũng chia sẻ những quan tâm về chính sách quân sự của Trung Quốc. Họ hiểu là đối với Trung Quốc không thể cầu an mà cũng chẳng thể ngăn cản. Phần nào họ tiêu biểu cho thái độ chung của Ấn Độ trước Trung Quốc: hoan nghênh về kinh tế và băn khoăn về quốc phòng. Những thăng trầm trong quan hệ giữa hai nước là tuỳ theo khuynh hướng ngả về phía này hay phía kia, ưu tiên cho kinh tế hay ưu tiên cho quốc phòng.

Cũng giống như thái độ của VN đối với Hoa kiều sau chiến tranh biên giới 1979, Ấn Độ e ngại rằng cộng đồng người Trung Quốc ở Ấn Độ (lúc đó có khoảng 20.000 người) sẽ gây ra các rắc rối nội bộ. Người Ấn có thể đã cô lập người Hoa, gây sức ép khiến người Hoa phải hồi hương.Và người Ấn đã rất quyết liệt trong việc "bài" người Hoa nên chỉ còn một số ít người Hoa tại Kolkata trụ lại và sống co cụm trong một cộng đồng nhỏ. Hiện nay, các hàng hóa Công nghệ cao có xuất sứ Trung Quốc cũng luôn bị "out" khỏi các gói thầu tại Ấn. Người Ấn sợ người Tàu cài cắm bọ, chíp... vào các thiết bị đó nhằm ăn cắp thông tin... chăng?! Các trung tâm R&D của các công ty CN cao của TQ đặt tại các trung tâm công nghệ của Ấn như Bangalore hay Mumbai đều không phát triển được mặc dù nguồn nhân lực CN cao của Ấn rất dồi dào.
Vấn đề căng thẳng giữa  "con voi" và "con rồng" này vẫn là mối quan tâm hàng ngày nên số lượng người Hoa còn lại cũng mai một và có thể sẽ bị xóa xổ hoàn toàn trong tương lai không xa.

Thứ Sáu, 7 tháng 1, 2011

Some scenes cannot be seen everyday

Some scenes cannot be seen everyday 






















































Ngọc trai Golden Pearl - thế mới biết là không dễ mua hàng thật!

Trên đảo Palawan tây nam Philipine, chỉ duy nhất 1 người trên thế giới tiết lộ các bí mật sản xuất loại  ngọc trai vàng quý hiếm. Ngọc trai tự nhiên được coi như đồ trang sức của hoàng gia. Mỗi con trai mất ít nhất 5 năm để sản xuất một viên ngọc như vậy và chỉ một lát cắt nhỏ nhất cũng có thể khiến con trai bị đó bị chết.
(On the island of Palawan in southwestern Philippines, the only living person in the world, who revealed the secret production of a rare form of jewelry and gold pearls. Go to the fragile natural pearls are treated like royal jewelry. Each oyster takes 5 years to produce one such gem, and the slightest jolt could kill it.)
Còn đây là quy trình: